Bài ôn tập tuần 7 môn Ngữ văn Lớp 9
Bạn đang xem tài liệu "Bài ôn tập tuần 7 môn Ngữ văn Lớp 9", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.
Tóm tắt nội dung tài liệu: Bài ôn tập tuần 7 môn Ngữ văn Lớp 9
BÀI TẬP NGỮ VĂN 9 TUẦN 7 (NGHỈ DỊCH) Học sinh tải bài về: học thuộc ý chính và viết bài hoàn chỉnh DÀN Ý NGHỊ LUẬN THƠ 1. Tác giả, tác phẩm - Vài nét về tác giả - Hoàn cảnh sáng tác - Nội dung (bài, đoạn) - Đoạn (trích thơ) 2. Thân bài a. Khái quát (bố cục) - Bài thơ mở đầu - Mở rộng ra là - Cuối cùng là b. Phân tích (Luận điểm + thơ + Phân tích) c. Khái quát nghệ thuật - Bài thơ được sáng tác theo thể thơ nào? - Giọng thơ như thế nào? - Hình ảnh ra sao? - Các biện pháp nghệ thuật (bài, đoạn)được vận dụng một cách sáng tạo, linh hoạt đã làm nên giá trị đoạn thơ, bài thơ 3. Tổng kết nội dung - Tác giả thành công viết về chủ đề - Liên hệ (tinh thần, thái độ, tư tưởng trong thực tế) PHÂN TÍCH BÀI THƠ “ĐỒNG CHÍ” – CHÍNH HỮU I. Tác giả, tác phẩm - Vài nét về tác giả: Chính Hữu là nhà thơ trong cuộc kháng chiến chống Pháp xâm lược. Đề tài chủ yếu trong thơ ông là “người lính” và “chiến tranh”. - Hoàn cảnh ra đời: Bài thơ “Đồng chí” được viết vào đầu xuân 1948, sau chiến thắng Việt Bắc thu đông năm 1947. Đây cũng là bài thơ hay nhất của Chính Hữu viết về người nông dân mặc áo lính. Dù đã đi qua hành trình hơn nửa thế kỉ, làm sang trọng một hồn thơ chiến sĩ của Chính Hữu - Nội dung bài thơ: “Đồng chí” là bài thơ ca ngợi tình đồng đội keo sơn gắn bó giữa những người chiến sĩ trong quân đội nhân dân trong cuộc sống chiến đấu gian khổ của thời kì kháng chiến 9 năm. II. Nội dung bài thơ * Khái quát bố cục Bài thơ gồm 3 phần, phần đầu là cơ sở hình thành tình đồng chí. Họ đều xuất thân những người nông dân nơi làng quê nghèo khổ. Tiếp theo là những biểu hiện của tình đồng chí. Đó là cùng nhau trải qua và thấu hiểu tâm tư nỗi lòng của nhau. Cuối cùng là vẻ đẹp và cũng là biểu tượng của người lính trong chiến đấu. 1. Cơ sở hình thành tình đồng chí Đồng chí! - “Đêm rét chung chăn” – chỉ thời tiết khắc nghiệt, là chung hơi ấm để vượt qua cái giá lạnh nơi núi rừng, là một hình ảnh cảm động và đầy ắp kỉ niệm. Những người từng tham gia kháng chiến chống Pháp ở chiến khu Việt Bắc hẳn không ai quên được cái rét ở vùng rừng núi Tây Bắc. Tố Hữu đã từng viết: “Rét Thái Nguyên rét về Yên Thế Gió qua rừng Đèo Khế gió sang” - Cái khó khăn thiếu thốn hiện lên: đêm rét, chăn không đủ đắp nên phải "chung chăn". Nhưng chính sự chung chăn ấy, sự chia sẻ với nhau trong gian khổ ấy đã trở thành niềm vui, thắt chặt tình cảm của những người đồng đội để trở thành "đôi tri kỉ". - “Tri kỉ” – đôi bạn thân thiết, hiểu bạn như hiểu mình, đồng cam cộng khổ, chia ngọt sẻ bùi: “Thương nhau chia củ sắn lùi Bát cơm sẻ nửa chăn sui đắp cùng”. - Cả bài thơ chỉ duy nhất có một chữ “chung” nhưng đã bao hàm được ý nghĩa sâu sắc và khái quát của toàn bài: Chung cảnh ngộ, chung giai cấp, chung chí hướng, chung khát vọng giải phóng dân tộc. - Tác giả khéo léo trong việc lựa chọn từ ngữ, khi sử dụng từ “đôi” ở câu thơ trên: + Thể hiện sự gắn kết không thể tách rời. + Từ “đôi người xa lạ” họ đã trở thành “đôi tri kỉ”, thành đôi bạn tâm tình thân thiết hiểu bạn như hiểu mình. - Khép lại đoạn thơ, là một câu thơ có vị trí đặc biệt “Đồng chí”. + Nó vang lên như một phát hiện, một lời khẳng định, một lời định nghĩa về đồng chí. + Thể hiện cảm xúc bị dồn nén, được thốt ra như một cao trào của cảm xúc, trở thành tiếng gọi tha thiết của tình đồng chí, đồng đội. + Gợi sự thiêng liêng, sâu lắng của tình đồng chí. + Dòng thơ đặc biệt ấy như một bản lề gắn kết nâng cao ý đoạn trước và mở ra ý thơ của các đoạn sau. “Đồng chí” là cái có thể cảm nhận mà không dễ nói hết. Và dấu chấm cảm đi kèm hai tiếng ấy bỗng như chất chứa bao trìu mến yêu thương. => Đoạn thơ đã đi sâu khám phá, lí giải cơ sở của tình đồng chí. Đồng thời, tác giả cho thấy sự biến đổi kì diệu từ những người nông dân hoàn toàn xa lạ trở thành những người đồng chí, đồng đội sống chết có nhau. 2. Những biểu hiện cảm động của tình đồng chí (gồm 10 câu) a. Biểu hiện thứ nhất: Họ thấu hiểu những tâm tư, nỗi lòng của nhau * Thấu hiểu cảnh ngộ, mối bận lòng của nhau về chốn quê nhà (3 câu đầu đoạn 2) Ruộng nương anh gửi bạn thân cày Gian nhà không mặc kệ gió lung lay Giếng nước gốc đa nhớ người ra lính. Giếng nước, gốc đa là hình ảnh thân thương của làng quê, nó còn là nơi hẹn hò, tự tình của đôi lứa yêu nhau “Trăm năm dầu lỗi hẹn hò Cây đa bến cũ con đò khác xưa” Giếng nước, gốc đa trong thơ Chính Hữu còn là người nhà, là hậu phương vững chắc đang hàng ngày dõi theo tin tức của họ, những người đang phải đối mặt với rét buốt và nguy hiểm. Không những vậy, “giếng nước” còn là nơi dân làng gặp gỡ sáng chiều. “Gốc đa” là nơi dân làng nghỉ ngơi khi trưa nắng. Những lúc ấy họ sẽ hỏi thăm nhau về những người trai làng ra trận. Gian nhà, giếng nước, gốc đa đã được nhân hóa, đang ngày đêm dõi theo bóng hình của người trai cày ra trận hay “người ra lính” vẫn ngày đêm ôm ấp bóng hình quê nhà? Cả hai nỗi nhớ cà hai phía chân trời. Tình yêu quê hương đã đã góp phần hình thành tình đồng chí, làm nên sức mạnh tinh thần để người lính vượt qua mọi thử thách, gian lao, ác liệt thời máu lửa. Cũng nói về nỗi nhớ ấy, Hoàng Trung Thông trong bài thơ “Bao giờ trở lại” đã viết: “Cây đa bến nước sân đình Lời thề nhớ buổi mít tinh lên đường Hoa cau thơm ngát đầu nương Anh đi là giữ tình thương dạt dào” b. Biểu hiện thứ 2: Đồng cam cộng khổ trong quân ngũ (7 câu cuối đoạn 2) Chính Hữu là người từng trực tiếp tham gia chiến dịch Việt Bắc thu đông năm 1947. Hơn ai hết, ông thấu hiểu những thiếu thốn và gian khổ của cuộc đời người lính. Bảy dòng thơ tiếp theo, ông để dành nói về những gian khổ của các anh bộ đội thời kì đầu cuộc kháng chiến chống Pháp: “Anh với tôi biết từng cơn ớn lạnh, Sốt run người, vừng trán ướt mồ hôi. Áo anh rách vai Quần tôi có vài mảnh vá Miệng cười buốt giá Chân không giày Thương nhau tay nắm lấy bàn tay!” - Gian khổ: sốt rét => để lại nhiều di chứng, da xanh, da vàng thậm chí còn rụng hết tóc. - “biết”: nghĩa là cùng nếm trải, cùng chịu gian nan thử thách => Hai câu đầu đoạn 2 nêu lên các triệu chứng của bệnh sốt rét. Những ai nhiễm bệnh, thoạt đầu cảm thấy ớn lạnh, sau đó lại run lên cầm cập, bao nhiêu chăn cũng không hết rét, trong khi thân nhiệt lại lên cao tới 40, 41 độ, người vã cả mồ hôi. Sau đó là da xanh, da vàng, viêm gan, viêm lá lách - Thiếu thốn: áo rách, quần vài mảnh vá, chân không giày => liệt kê: tái hiện đời sống hiện thực của người lính. - “Miệng cười buốt giá”: rét buốt, khô hanh, cười bật máu => thái độ lạc quan coi thường thử thách. (ngoài ra có thể hiểu cười trong buốt giá, vì áo quần không chống được rét, mà cũng là nụ cười vượt lên trên buốt giá. Đây cũng có súng trăng treo” là một hình ảnh thơ mộng, nói lên trong chiến đấu gian khổ, anh bộ đội vẫn yêu đời, tình đồng chí thêm keo sơn gắn bó, họ cùng mơ ước một ngày mai đất nước thanh bình. Trăng Việt Bắc, trăng giữa núi ngàn chiến khu, trăng trên bầu trời, trăng tỏa trong màn sương mờ huyền ảo. Mượn trăng để tả cái vắng lặng của chiến trường, để tô đậm cái tư thế trầm tĩnh “chờ giặc tới”. Dường như mọi gian nan căng thẳng của trận đánh đang nhường chỗ cho vẻ đẹp huyền diệu, thơ mộng của vầng trăng và đó cũng là vẻ đẹp cao cả thiêng liêng của tình đồng chí, tình chiến đấu. * Khái quát nghệ thuật - Bài thơ được sáng tác theo thể thơ tự do - Ngôn ngữ thơ hàm súc, cô đọng, mộc mạc như tiếng nói người lính. Các thành ngữ, ca dao được Chính Hữu vận dụng linh hoạt, tạo nên chất thơ dung dị, hồn nhiên. Sự kết hợp giữa bút pháp hiện thực và màu sắc lãng mạn tạo nên sự thành công của bài thơ “Đồng chí”. III. Tổng kết - Chính Hữu đã rất thành công khi viết về anh bộ đội cụ Hồ - người nông dân mặc áo lính. Những anh hùng áo vải trong thời đại Hồ Chí Minh - Đọc xong bài thơ chúng ta cảm nhận được mối tình đồng chí đậm đà qua những lời thơ nhẹ nhàng, thiết tha. Cuộc kháng chiến chống Pháp đã đi qua với những thắng lợi vẻ vang nhưng mỗi khi đọc lại bài thơ “Đồng chí” ta thấy hình ảnh người lính lại hiện lên sáng rực thật cao đẹp, thật thân thương. “BÀI THƠ TIỂU ĐỘI XE KHÔNG KÍNH” – PHẠM TIẾN DUẬT I. Tác giả, tác phẩm - Phạm Tiến Duật là nhà thơ trưởng thành trong cuộc kháng chiến chống Mĩ cứu nước. - Chủ đề trong thơ của ông thường thể hiện tình cảm yêu nước và chí khí anh hùng của thế hệ thanh niên trong cuộc chiến tranh chống Mĩ qua những hình ảnh cô thanh niên xung phong và anh bộ đội trên tuyến đường Trường Sơn. - “Bài thơ tiểu đội xe không kính” được sáng tác năm 1969 khi cuộc kháng chiến chống Mĩ diễn ra vô cùng ác liệt. Bài thơ đã ghi lại những nét ngang tàng, dũng cảm và tinh thần lạc quan của người chiến sĩ lái xe trên tuyến đường Trường Sơn máu lửa. II. Nội dung bài thơ * Ý nghĩa nhan đề bài thơ - Bài thơ có nhan đề khá dài, khá đặc biệt: “Bài thơ về tiểu đội xe không kính”. Nhan đề bài thơ thoạt nghe sẽ thấy như có chỗ thừa: thừa hai chữ “bài thơ”. Nhưng chính chỗ thừa ấy đã tạo sức hút cho người đọc ở vẻ khác lạ và độc đáo ở sức gợi: gợi chất thơ của cuộc sống nơi chiến trường. - Hình ảnh “tiểu đội xe không kính” được đưa vào nhan đề bài thơ: - “Nhìn đất”, “nhìn trời”, “nhìn thẳng”: đã cho thấy tư thế vững vàng, bình thản, dũng cảm của người lính lái xe. Họ nhìn thẳng vào bom đạn của kẻ thù, nhìn thẳng vào con đường đang bị bắn phá để lái xe vượt qua. Đồng thời còn nìn thẳng vào sự mất mát, hi sinh, không run sợ, không né tránh, đó chính là tinh thần dũng cảm, không sợ quân thù. - Tư thế ung dung, hiên ngang của người lính lái xe ra trận được khắc họa thêm đậm nét qua những hình ảnh hòa nhập vào thiên nhiên: “Nhìn thấy gió vào xoa mắt đắng Nhìn thấy con đường chạy thẳng vào tim Thấy sao trời và đột ngột cánh chim Như sa, như ùa vào buồng lái.” - Tác giả đã mở ra một không gian rộng lớn với những con đường dài phía trước, có gió thổi, có cánh chim chiều và cả những ánh sao đêm. Dường như thiên nhiên, vũ trụ như đang ùa vào buồng lái. - Điệp từ, điệp ngữ: “nhìn thấynhìn thấythấy” đã gợi được những đoàn xe không kính nối đuôi nhau hành quân ra chiến trường. - Nhìn thấy gió vào xoa mắt đắng: nhân hóa => gió ân cần, dịu dàng. Tác giả thi vị hóa cái khó khăn thể hiện tinh thần bất chấp của người lính lái xe. - Liệt kê “gió, mắt đắng, con đường, sao trời, cánh chim” là những khó khăn liên tiếp xảy ra với người chiến sĩ lái xe và đoàn xe không kính. - Ẩn dụ “con đường chạy thẳng vào tim”: là con đường cách mạng, con đường giải phóng dân tộc, là con đường Bắc Nam sum họp một nhà. Nó còn gợi liên tưởng tới những chiếc xe phóng với tốc độ nhanh như bay. Lúc đó, giữa các anh với con đường dường như không còn khoảng cách, khiến các anh có cảm giác con đường như đang chạy thẳng vào tim. Đồng thời cho thấy tinh thần khẩn trương của các anh đối vợi sự nghiệp giải phóng miền Nam. - “sao trời”: ngôi sao cách mạng dẫn đến thành công. - Từ láy “đột ngột”: diễn ra bất ngờ gây lung túng cho người lái xe. - So sánh “Như sa, như ùa vào buồng lái”: diễn tả về tốc độ phi thường của tiểu đội xe không kính khi ra trận. Cả một bầu trời đêm như ùa vào buồng lái. Đoạn văn tham khảo: Như vậy các câu thơ được viết lên bằng sự trải nghiệm của người trong cuộc nên vô cùng chân thực. Không có kính nên các anh chiến sĩ phải đối diện với biết bao nhiêu là sự nguy hiểm, khó khăn. Nào là “gió vào xoa mắt đắng”, nào là sao trời, cánh chim “như sa, như ùa vào mặt, vào người, vào buồng lái của người lính lái xe. Các động từ mạnh “chạy thẳng, đột ngột, như sa, như ùa” đã cho thấy những cảm giác đầy căng thẳng, thách thức và hiểm nguy mà người lính phải đối diện. Tuy nhiên, đứng trước hoàn cảnh ấy, người lính không hề run sợ, hoảng hốt, né tránh mà trái lại rất đàng hoàng, hiên ngang, thoải mái: “Ung dung buồng lái ta ngồi/Nhìn đất, nhìn trời, nhìn thẳng". Nghệ thuật đảo ngữ đẩy động từ “ung dung” lên trước đã cho thấy tư thế rất tự tin, bình thản và có phần ngang tàng của người lính. Điệp từ “nhìn”, “thấy” được lặp đi lặp lại cho thấy tất cả khung cảnh thiên nhiên như bỗng
File đính kèm:
bai_on_tap_tuan_7_mon_ngu_van_lop_9.doc

