Bài tập ôn luyện môn Ngữ văn Lớp 9

docx 19 trang ducvinh 29/10/2025 40
Bạn đang xem tài liệu "Bài tập ôn luyện môn Ngữ văn Lớp 9", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.

Tóm tắt nội dung tài liệu: Bài tập ôn luyện môn Ngữ văn Lớp 9

Bài tập ôn luyện môn Ngữ văn Lớp 9
 Đề bài: Phân tích 4 khổ thơ đầu Bài thơ về tiểu đội xe không kính của Phạm 
Tiến Duật:
 “Không có kính không phải vì xe không có kính
 ...
 Mưa ngừng gió lùa mau khô thôi”.
A. Mở bài :
 - Phạm Tiến Duật là nhà thơ trẻ thời kháng chiến chống Mĩ, thơ ông chủ yếu 
viết về thế hệ trẻ trong giai đoạn này.
 - Bài thơ sáng tác 1969 khi cuộc kháng chiến chống Mĩ diễn ra ác liệt, bài thơ 
được trích trong tác phẩm “vầng trăng quầng lửa”.
 - Bài thơ ca ngợi người chiến sĩ lái xe trên tuyến đường Trường Sơn dũng cảm, 
hiên ngang tràn đầy niềm tin chiến thắng trong cuộc kháng chiến này.Đặc biệt thể 
hiện trong 4 khổ thơ đầu.
- Trích thơ: “Không có kính không phải vì xe không có kính
 ...
 Mưa ngừng gió lùa mau khô thôi”.
B. Thân bài:
 *Mạch cảm xúc: cảm xúc được bắt nguồn từ hình ảnh đôc đáo , những chiếc xe 
không kính vẫn băng băng ra chiến trường, một hình ảnh rất thực về cuộc sống của 
những người lính lái xe trên tuyến đường Trường Sơn.
*Khổ 1: Hình ảnh chiếc xe không kính hình ảnh người chiến sĩ lái xe hiện lên 
tự nhiên mà đặc biệt.
 “Không có kính không phải vì xe không có kính
 Bom giật bom rung kính vỡ đi rồi”
 - Cấu trúc bài thơ dưới hình thức hỏi đáp để lí giải vì sao xe không có kính: 
“không phải”, lí giải hình dạng chiếc xe ban đầu là có kính.
 - Điệp từ “không” được lặp đi lặp lai, đó là những chiếc xe vận tải chở hàng 
hóa, đạn dược ra mặt trận, bị máy bay Mĩ bắn phá, kính xe vỡ hết. 
 - Động từ mạnh “giật”, “ rung” đã khẳng định bom đạn chiến tranh làm chiếc 
xe biến dạng.
→ Hai câu thơ đầu giải thích nguyên nhân đồng thời phản ánh mức độ khốc liệt của 
chiếc tranh . Hình ảnh chiếc xe không kính làm nổi bật chiến sĩ. Dù thiếu đi phương 
tiện vật chất nhưng hình ảnh người lính hiện lên rất đẹp. →Bom đạn không làm cho người lính khô cằn, chai sạn , ngược lại, chiếc xe không 
kính làm họ gần gủi với thiên nhiên hơn, họ mạnh mẽ hơn, yêu đời hơn.
*Khổ 3: Ngôn ngữ giọng điệu ngang tàng của người chiến sĩ. Cái nhìn lạc quan 
trước những khó khăn gian khổ .
 “ Không có kính ừ thì có bụi
 Bụi phun tóc trắng như người già” 
 “Chưa cần rửa, phì phèo châm điếu thuốc
 Nhìn nhau mặt lấm cười ha ha”
 - Hình ảnh thơ mộc mạc, ngang tàng, những cụm từ “ ừ thì, chưa cần” thể hiện 
một thái độ ngang tàng, bất chấp khó khăn của người lính
 - Bằng thủ pháp so sánh “Bụi phun tóc trắng như người già” → bụi đường 
Trường Sơn bay trắng xóa làm tóc xanh trở thành tóc trắng. Thế nhưng họ không 
mảy may không quan tâm họ bất chấp khó khăn vẫn lạc quan yêu đời thể hiện qua 
hình ảnh và âm thanh tiếng cười haha.
 - Đây là phẩm chất của người lính, nói rất đúng là tinh thần và cuộc sống của 
người lính, sự hồn nhiên , lạc quan “chưa cần”. Cái cười ha ha, lấm lem trên khuôn 
mặt đáng yêu của người lính. Hiện thực ấy ta hiểu hơn cuộc kháng chiến của người 
lính ngoài chiến trường.
 =>Càng khó khăn gian khổ họ càng gắn bó yêu thương nhau, tình đồng đội hình 
thành từ đó.
*Khổ 4: Cách giải quyết khó khăn bất ngờ của người lính
 “Không có kính ừ thì ướt áo
 Mưa tuôn mưa xối như ngoài trời
 Chưa cần thay lái trăm cây số nữa
 Mưa ngừng gió lùa mau khô thôi”
 - Ngôn ngữ rất gần chất câu văn xuôi cho ta thấy được hiện thực ác liệt, gian 
khổ trong công việc của người chiến sĩ lái xe trên chiến trường cứ hiện lên từng 
mảnh, rõ ràng chân thật, sinh động.
 - Điệp cấu trúc câu “ không có kính, ừ thì, chưa cần” vang lên đầy tự hào 
chất chứa niềm tin thể hiện hiên ngang bất chấp khó khăn. Đề bài: Phân tích 3 khổ thơ cuối Bài thơ về tiểu đội xe không kính của Phạm 
Tiến Duật:
 “Những chiếc xe từ trong bom rơi
 .............................................
 Lại đi ,lại đi trời xanh thêm.”
 (Theo Ngữ Văn 9,Tập I)
 I. Mở bài:
 - Phạm Tiến Duật là nhà thơ trẻ thời kháng chiến chống Mĩ,thơ ông chủ yếu viết 
về thế hệ trẻ trong giai đoạn này.
 - “Bài thơ về tiểu đội xe không kính” sáng tác năm 1969,khi cuộc kháng chiến 
chống Mĩ cứu nước đang ở giai đoạn ác liệt, các đoàn xe liên tục tiếp tế nhu yếu 
phẩm cho miền Nam qua tuyến đường Trường Sơn đầy bom đạn.
 - Bài thơ ca ngợi người chiến sĩ lái xe Trường Sơn dũng cảm, hiên ngang tràn đầy 
niềm tin chiến thắng trong cuộc kháng chiến này.Đặc biệt 3 khổ thơ cuối ca ngợi 
tình đồng đội keo sơn gắn bó và lí tưởng chiến đấu vì miền Nam ruột thịt của họ.
 - Trích thơ: “Những chiếc xe từ trong bom rơi
 .............................................
 Lại đi ,lại đi trời xanh thêm.”
 II.Thân bài:
 *Mạch cảm xúc:Cảm xúc được bắt đầu từ hình ảnh độc đáo-những chiếc xe 
không kính vẫn băng băng ra chiến trường-một hình ảnh rất thực về cuộc sống của 
những người lính lái xe, tiếp theo tác giả lí giải nguyên nhân của hiện tượng ấy và 
làm nổi bật hình ảnh những người lính lái xe trên tuyến đường Trường Sơn.
 *Khổ 5,6: Tình đồng đội keo sơn, gắn bó
 “Những chiếc xe từ trong bom rơi
 .....................................................
 Bắt tay nhau qua cửa kính vỡ rồi”.
 - Từ trong bom đạn hiểm nguy, “tiểu đội xe không kính” được hình thành,bao gồm 
những con người bốn phương chung lý tưởng,gặp nhau thành bạn bè.
- Cái “bắt tay” thật đặc biệt,nó thể hiện tình đồng đội,niềm tin,sự truyền lửa,sự bù 
đắp tinh thần cho những thiếu thốn về vật chất->Có sự gặp gỡ với ý thơ của Chính 
Hữu trong bài Đồng Chí: “Thương nhau tay nắm lấy bàn tay”nhưng hồn nhiên và 
trẻ trung hơn.
 “Bếp Hoàng Cầm ta dựng giữa trời
 ....................................................
 Lại đi , lại đi trời xanh thêm”.
 - Hình ảnh sinh hoạt ấm tính đồng đội.Các anh cùng chung niềm vui sôi nổi của 
tuổi trẻ,của tình đồng đội,tình đồng chí.
 + Điệp ngữ “lại đi” và hình ảnh “trời xanh thêm” tạo âm hưởng thanh thản,nhẹ 
nhàng,thể hiện niềm lạc quan,tin tưởng của người lính về sự tất thắng của cuộc 
kháng chiến chống Mỹ Đề: Phân tích khổ thơ 2,3,4,5 trong bài thơ “Bếp lửa” của Bằng Việt.
 I. Mở bài:
 - BV thuộc các thế hệ nhà thơ trưởng thành trong cuộc k/c chống Mỹ cứu 
 nước.
 - Bài thơ “Bếp lửa” được sáng tác năm 1963 khi tác giả là sinh viên học 
 ngành luật ở nước ngoài.
 - Các khổ thơ khắc họa thành công hình ảnh bếp lửa gắn với bao kỷ niệm, 
 cảm xúc và suy nghĩ về bà và tình bà cháu.
 - Bếp lửa ấy cũng chính là kỉ niệm tuổi thơ, là tình bà cháu đã sưởi ấm tấm 
 lòng tác giả suốt thời thơ ấu, khi trưởng thành và cả cuộc đời.
 -Trích thơ: “Lên bốn tuổi cháu đã quen mùi khói
 ......................................................
 Một ngọn lửa chứa niềm tin dai dẳng”.
 II.Thân bài:
 1. Mạch cảm xúc của bài thơ đi từ hồi tưởng đến hiện tại, từ kỉ niệm 
đến suy ngẫm. Là lời của người cháu ở nơi xa nhớ về bà và những kỉ niệm với bà, 
nói lên lòng kính yêu và những suy ngẫm về bà.
 2. Phân tích các khổ thơ (khổ 2,3,4,5): Hồi tưởng những kỉ niệm tuổi 
 thơ sống bên bà.
 Khổ 2: Tuổi thơ có nhiều gian khổ, thiếu thốn, nhọc nhằn:
 “ Lên bốn tuổi cháu đã quen mùi khói
 .... Nghĩ lại đến giờ sống mũi còn cay!”
 + Ấn tượng về nạn đói năm 1945 và quá khứ đau thương của dân tộc.
 + Tuổi thơ ấy cháu đã quen mùi khói tỏa ra từ bếp lửa do chính tay bà 
 nhóm.
 + Thành ngữ “đói mòn đói mỏi”, chi tiết “khô rạc ngựa gầy” đậm chất 
hiện thực tái hiện hình ảnh xóm làng sơ xác, tiêu điều cùng những con người tiều 
tụy, vật lộn mưu sinh.
 + “Sống mũi còn cay” Ấn tượng nhất vẫn là mùi khói bếp của cậu bé 4 
 tuổi (quá khứ) hòa với cái cay vì xúc động của người cháu đã trưởng thành nhớ về 
 bà (hiện tại).
 => Tâm trạng của cháu tha thiết bởi sự đùm bọc, che chở của bà.
 Khổ 3: Nhớ về bếp lửa, nhớ về tình bà cháu suốt tám năm ròng
 “ Tám năm ròng cháu cùng bà nhóm lửa
 .... Kêu chi hoài trên những cánh đồng xa ?”
 + “Tám năm ròng” tám năm sống cùng bà vất vả, khó khăn nhưng đầy 
tình yêu thương.
 + “Mẹ cùng cha công tác bận không về” kháng chiến bùng nổ bà vừa là 
cha, vừa là mẹ nuôi dưỡng, dạy dỗ cháu nên người.
 + Một loạt từ “bà bảo, bà dạy, bà chăm” vừa diễn tả sâu sắc tình thương 
bao la, vừa thể hiện lòng biết ơn của cháu đối với bà. + Sáng tạo hình ảnh bếp lửa – hình ảnh vừa thực vừa mang ý nghĩa biểu 
tượng.
 III. Kết bài:
 + Qua khổ thơ đánh thức những kỉ niệm thân thiết nhất của tuổi thơ mỗi 
người đều có sức tỏa sáng, nâng đỡ con người suốt hành trình dài của cuộc đời.
 + Tác giả thành công ở nghệ thuật sáng tạo hình ảnh bếp lửa, vừa mang ý 
nghĩa tả thực, vừa mang ý nghĩa biểu tượng, kết hợp nhuần nhuyễn giữa biểu cảm 
với miêu tả, tự sự và bình luận. Nhưng vẫn chẳng lúc nào quên nhắc nhở:
 - Sớm mai này bà nhóm bếp lên chưa?”
 - Dòng thơ đầu được ngắt thành hai câu để gợi sự chảy trôi của thời gian (từ bốn 
tuổi, tám tuổi đến trưởng thành); gợi sự biến đổi của không gian (từ căn bếp của bà 
đến những khoảng trời rộng lớn).
 - Điệp từ “trăm” mở ra một thế giới rộng lớn với bao điều mới mẻ.
 - Điệp từ “có” kết hợp với thủ pháp liệt kê:
 + Cho thấy người cháu đã có những thay đổi lớn trong cuộc đời, đã tìm được 
bao niềm vui mới.
 + Khẳng định đứa cháu không thể quên được ngọn lửa của bà, tấm lòng đùm 
bọc, ấp iu của bà. Ngọn lửa ấy đã thành kỷ niệm ấm lòng, thành niềm tin thiêng 
liêng, kì diệu nâng bước người cháu trên suốt chặng đường dài.
 => Khổ thơ chứa đựng đạo lí thủy chung, cao đẹp bao đời của người Việt: “uống 
nước nhớ nguồn”. Đạo lí ấy được nuôi dưỡng ở mỗi tâm hồn con người từ thuở ấu 
thơ, để rồi như chắp cánh để mỗi người bay cao, bay xa trên hành trình cuộc đời. 
 3. Đánh giá chung:
 - Sự kết hợp hài hòa của các phương thức biểu đạt: biểu cảm, tự sự, miêu tả, bình 
luận.
 - Thể thơ 8 chữ phù hợp với việc diễn tả cảm xúc và suy ngẫm về bà.
 - Giọng điệu tâm tình, tha thiết, tự nhiên, sáng tạo hình ảnh bếp lửa – vừa tả thực 
vừa mang ý nghĩa biểu tượng.
 - Hệ thống hình ảnh vừa chân thực lại vừa giàu ý nghĩa biểu tượng.
 - Cảm xúc mãnh liệt, chân thành và đậm chất triết lí sâu xa.
Kết bài:
 - Hai khổ thơ cuối của bài thơ là những hồi tưởng và suy ngẫm của người cháu về 
bà và tình bà cháu. Qua đó, bộc lộ tình cảm sâu nặng đối với gia đình, quê hương, 
đất nước.
 - Liên hệ bản thân. nhiệm vụ. Các anh là những người nông dân mặc áo lính -> sự đồng cảm về 
 giai cấp.
 - Từ những người xa lạ, đến từ mọi miền của đất nước, các anh đã cùng tập 
hợp trong dưới hàng ngũ quân đội và trở nên thân quen.
 - Điệp từ, hình ảnh ẩn dụ “súng, đầu”, hình ảnh sóng đôi “súng bên súng, 
đầu sát bền đầu” mang ý nghĩa tượng trưng -> Tình đồng chí được hình thành trên 
cơ sở cùng lí tưởng mục đích nhiệm vụ. Theo tiếng gọi của Tổ quốc, các anh đã 
cùng tập hợp dưới quân kì, cùng kề vai sát cánh trong đội ngũ để chiến đấu bảo vệ 
Tổ quốc.
 - Hình ảnh thơ cụ thể, giản dị, gợi cảm “Đêm rét chung chăn thành đôi tri kỉ 
”-> Chính trong những gian khó, các anh đã trở thành tri kỉ của nhau, để cùng 
nhau chia sẻ mọi gian lao, thiếu thốn.
 - Câu thơ thứ bảy có cấu tạo đặc biệt “Đồng chí! ”có vai trò như một bản lề 
kết nối phần 1 và phần 2 là một phát hiện mới mẻ, một điểrn sáng tạo, một nét độc 
đáo của Chính Hữu thể hiện chủ đề bài thơ, là tiếng gọi ấm áp, thân thương... -> 
Tình đồng chí là biểu hiện cao đẹp của tình bạn, tình người.
 => Chính vì những sự tương đồng ấy mà tình đồng chí của những người lính 
trở nên bền vững và giàu ý nghĩa.
 b. Mười câu tiếp theo: Biểu hiện và sức mạnh của tình đồng chí:
 “Ruộng nương anh gửi bạn thân cày 
 Gian nhà không mặc kệ gió lung lay 
 Giếng nước gốc đa nhớ người ra lính.
 Anh với tôi biết từng cơn ớn lạnh,
 Sốt run người, vừng trán ướt mồ hôi.
 Áo anh rách vai
 Quần tôi có vài mảnh vá 
 Miệng cười buốt giá 
 Chân không giày
 Thương nhau tay nắm lấy bàn tay”
 - Hình ảnh chân thật “gian nhà không” vừa gợi cái nghèo, cái xơ xác của 
những miền quê lam lũ, vừa gợi sự trống trải trong lòng người ra đi và người ở lại.
 - Hình ảnh: “ruộng nương, gian nhà, giếng nước, gốc đa” là những hình ảnh 
gắn bó máu thịt họ không dễ gì từ bỏ nhưng hai chữ “mặc kệ” cho thấy họ ra đi với 
thái độ dứt khoát họ đã gác lại tình riêng để lên đường làm nhiệm vụ vì mục đích 

File đính kèm:

  • docxbai_tap_on_luyen_mon_ngu_van_lop_9.docx