Đề tài Phương pháp "Bàn tay nặn bột" trong dạy học các môn khoa học ở trường tiểu học và trung học cơ sở

doc 77 trang ducvinh 06/08/2025 130
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Đề tài Phương pháp "Bàn tay nặn bột" trong dạy học các môn khoa học ở trường tiểu học và trung học cơ sở", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.

Tóm tắt nội dung tài liệu: Đề tài Phương pháp "Bàn tay nặn bột" trong dạy học các môn khoa học ở trường tiểu học và trung học cơ sở

Đề tài Phương pháp "Bàn tay nặn bột" trong dạy học các môn khoa học ở trường tiểu học và trung học cơ sở
 BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
 NGUYỄN VINH HIỂN (Chỉ đạo nội dung)
 PHẠM NGỌC ĐỊNH - NGUYỄN THỊ THANH HƯƠNG
 TRẦN THANH SƠN - NGUYỄN XUÂN THÀNH
 PHƯƠNG PHÁP "BÀN TAY NẶN BỘT"
 TRONG DẠY HỌC CÁC MÔN KHOA HỌC
 Ở TRƯỜNG TIỂU HỌC VÀ TRUNG HỌC CƠ SỞ
 (Tài liệu dùng trong các trường Tiểu học, THCS)
HÀ NỘI 2011
MỤC LỤC
LỜI NÓI ĐẦU.. 
CHƯƠNG I.
GIỚI THIỆU VỀ LỊCH SỬ RA ĐỜI VÀ PHÁT TRIỂN CỦA PHƯƠNG PHÁP 
"BÀN TAY NẶN BỘT" 
1.1. Khái quát về phương pháp “Bàn tay nặn bột”. 
1.2. Sự ra đời và phát triển của phương pháp BTNB ở Pháp. 
1.3. Giáo sư Georges Charpak - Người khai sinh phương pháp BTNB.. 
1.4. Phương pháp BTNB trên thế giới 
1.5. Phương pháp BTNB tại Việt Nam.. 
CHƯƠNG II. 
LÍ LUẬN CƠ BẢN VỀ PHƯƠNG PHÁP "BÀN TAY NẶN BỘT". 
2.1. Cơ sở khoa học của phương pháp BTNB.. 
2.2. Các nguyên tắc cơ bản của phương pháp BTNB.. 
2.3. Tiến trình dạy học theo phương pháp BTNB.. 
2.4. Mối quan hệ giữa phương pháp BTNB với các phương pháp dạy học khác. 
CHƯƠNG III. 
CÁC KỸ THUẬT DẠY HỌC VÀ RÈN LUYỆN KỸ NĂNG CHO HỌC SINH 
TRONG PHƯƠNG PHÁP "BÀN TAY NẶN BỘT". 
3.1. Tổ chức lớp học. 
3.2. Kỹ thuật tổ chức hoạt động thảo luận cho học sinh. 
3.3. Kỹ thuật tổ chức hoạt động nhóm trong phương pháp BTNB.. 
3.4. Kỹ thuật đặt câu hỏi của giáo viên. 
3.5. Rèn luyện ngôn ngữ cho học sinh thông qua dạy học theo phương pháp BTNB.. 
3.6. Kĩ thuật chọn ý tưởng, nhóm ý tưởng của học sinh. 
3.7. Hướng dẫn học sinh đề xuất thí nghiệm nghiên cứu hay phương án tìm câu trả lời 
3.8. Hướng dẫn học sinh sử dụng vở thí nghiệm.. 
3.9. Hướng dẫn học sinh phân tích thông tin, hiện tượng quan sát khi nghiên cứu để 
đưa ra kết luận 
3.10. So sánh kết quả thu nhận được và đối chiếu với kiến thức khoa học. 
3.11. Đánh giá học sinh trong dạy học theo phương pháp BTNB.. 
CHƯƠNG IV. 
SỬ DỤNG PHƯƠNG PHÁP "BÀN TAY NẶN BỘT" TRONG DẠY HỌC CÁC 
 1 Phương pháp dạy học "Bàn tay nặn bột" (BTNB), tiếng Pháp là La main à la 
pâte - viết tắt là LAMAP; tiếng Anh là Hands-on, là phương pháp dạy học khoa học 
dựa trên cơ sở của sự tìm tòi - nghiên cứu, áp dụng cho việc dạy học các môn khoa 
học tự nhiên. Phương pháp này được khởi xướng bởi Giáo sư Georges Charpak (Giải 
Nobel Vật lý năm 1992). Theo phương pháp BTNB, dưới sự giúp đỡ của giáo viên, 
chính học sinh tìm ra câu trả lời cho các vấn đề được đặt ra trong cuộc sống thông 
qua tiến hành thí nghiệm, quan sát, nghiên cứu tài liệu hay điều tra để từ đó hình 
thành kiến thức cho mình.
 Đứng trước một sự vật hiện tượng, học sinh có thể đặt ra các câu hỏi, các giả 
thuyết từ những hiểu biết ban đầu, tiến hành thực nghiệm nghiên cứu để kiểm chứng 
và đưa ra những kết luận phù hợp thông qua thảo luận, so sánh, phân tích, tổng hợp 
kiến thức.
 Mục tiêu của phương pháp BTNB là tạo nên tính tò mò, ham muốn khám phá 
và say mê khoa học của học sinh. Ngoài việc chú trọng đến kiến thức khoa học, 
phương pháp BTNB còn chú ý nhiều đến việc rèn luyện kỹ năng diễn đạt thông qua 
ngôn ngữ nói và viết cho học sinh.
1.2. Sự ra đời và phát triển của phương pháp BTNB ở Pháp
 Năm 1995, giáo sư Georges Charpak dẫn một đoàn gồm các nhà khoa học và 
các đại diện của Bộ Giáo dục Quốc gia Pháp đến một khu phố nghèo ở Chicago (Mỹ) 
để tìm hiểu về một phương pháp dạy học khoa học dựa trên việc thực hành, thí 
nghiệm đang được thử nghiệm ở đây. Sau đó một nhóm nghiên cứu về vấn đề này 
được thành lập tại Ban Trường học - Bộ Giáo dục Quốc gia Pháp. Viện Nghiên cứu 
Sư phạm Quốc gia Pháp (INRP) được đề nghị làm báo cáo về hoạt động khoa học 
này ở Mỹ và sự tương thích của các hoạt động này với điều kiện ở Pháp (Báo cáo 
thực hiện vào tháng 12 năm 1995).
 Trong năm học 1995 - 1996, Ban Trường học - Bộ Giáo dục Quốc gia Pháp đã 
vận động khoảng 30 trường thuộc 3 tỉnh tình nguyện thực hiện chương trình.
 Tháng 4/1996, một hội thảo nghiên cứu về phương pháp BTNB được tổ chức 
tại Poitiers (miền Trung nước Pháp), tại đây kế hoạch hành động đã được giới thiệu 
và triển khai.
 Ngày 09/7/1996, Viện Hàn lâm Khoa học Pháp đã thông qua quyết định thực 
hiện chương trình.
 Tháng 9/1996, cuộc thử nghiệm đầu tiên được tiến hành bởi Bộ Giáo dục Quốc 
gia Pháp với 5 tỉnh và 350 lớp học tham gia. Nhiều trường đại học, viện nghiên cứu 
tham gia giúp đỡ các giáo viên thực hiện các tiết dạy.
 Như vậy từ đây, phương pháp BTNB chính thức được ra đời trên cơ sở kế thừa 
của các thử nghiệm trước đó và tiếp tục phát triển.
 Năm 1997, một nhóm chuyên gia của Viện Hàn lâm Khoa học Pháp và Viện 
Nghiên cứu Sư phạm Quốc gia Pháp được thành lập để thúc đẩy sự phát triển của 
khoa học trong trường học. Dưới sự tài trợ của Bộ Giáo dục Quốc gia Pháp, trang 
web  ra đời vào tháng 5/1998 nhằm cung cấp thông tin, tài 
liệu để giúp đỡ giáo viên trong các hoạt động dạy học khoa học trong nhà trường. 
 3 giúp học sinh quen với phương pháp học tập khoa học, chịu khó suy nghĩ tìm tòi, 
mang lại một không khí mới cho việc giảng dạy và học tập khoa học tại các trường 
học ở Pháp.
 Cùng với việc phát triển và truyền bá rộng rãi phương pháp này trong nước, Bộ 
Giáo dục Quốc gia Pháp đã phối hợp với các cơ quan nghiên cứu, các bộ liên quan và 
Viện Nghiên cứu Sư phạm Quốc tế tại Paris để tổ chức hội thảo quốc tế về phương 
pháp BTNB nhằm giúp các quốc gia quan tâm về nguồn tài liệu, cách làm và triển 
khai phương pháp này vào chương trình giáo dục của mỗi nước theo đặc thù về văn 
hóa cũng như chương trình giáo dục. Hội thảo quốc tế lần thứ nhất về dạy học khoa 
học trong trường học đã được tổ chức vào tháng 5/2010. Hội thảo đã thu hút thành 
viên đại diện của 33 quốc gia tham dự. Hội thảo lần thứ hai được tổ chức từ ngày 9 
đến ngày 14/5/2011 tại Paris với gần 40 quốc gia ngoài khối cộng đồng chung Châu 
Âu (EU) tham gia. Tham dự Hội thảo lần này có hai đại diện Việt Nam, đó là TS. 
Phạm Ngọc Định (P. Vụ trưởng Vụ Giáo dục Tiểu học - Bộ Giáo dục và Đào tạo) và 
ThS. Trần Thanh Sơn (Đại học Quảng Bình - cộng tác viên phụ trách chương trình 
BTNB của Hội Gặp gỡ Việt Nam).
1.3. Giáo sư Georges Charpak - Người khai sinh phương pháp BTNB
1.3.1. Sơ lược tiểu sử của giáo sư Georges Charpak (theo wikimedia)
 Georges Charpak (01/08/1924 –29/09/2010) là viện sĩ Viện Hàn lâm Khoa học 
Pháp, đoạt giải Nobel về Vật lý năm 1992. Ông đã nghiên cứu chi tiết quá trình ion 
hóa trong chất khí và đã sáng tạo ra buồng dây, một đầu thu chứa khí trong đó các 
dây được bố trí dày đặc để thu các tín hiệu điện gần các điểm ion hóa, nhờ đó có thể 
quan sát được đường đi của hạt. Buồng dây và các biến thể của nó, buồng chiếu thời 
gian và một số tổ hợp tạo thành từ buồng dây phát xung ánh sáng Cherenkov tạo 
thành các hệ thống phức tạp cho phép tiến hành các nghiên cứu chọn lọc cho các hiện 
tượng cực hiếm (như việc hình thành các quark nặng), tín hiệu của các hiện tượng 
này thường bị lẫn trong các nền nhiễu mạnh của các tín hiệu khác. Dưới đây chúng 
tôi tóm tắt sơ lược tiểu sử của giáo sư Georges Charpak - người khai sinh phương 
pháp BTNB (La main à la pâte) theo nguồn của Trung tâm Nghiên cứu Khoa học 
Quốc gia Pháp (CNPS) và Wikipedia.
 Georges Charpak sinh ngày 01/08/1924 tại Dabrovica, Phần Lan. Ông học kỹ 
sư trường Mỏ Paris (1948), là một trường danh tiếng và uy tín trong hệ thống 
trường lớn "Grandes écolé" của nước Pháp. G. Charpak bảo vệ luận án tiến sĩ năm 
1955, trở thành nghiên cứu viên của Trung tâm Nghiên cứu Khoa học Quốc gia Pháp 
(CNRS), tại phòng thí nghiệm Vật lý hạt nhân của Collègue de France (một trường 
danh tiếng và uy tín tại Paris). Năm 1959, ông là nghiên cứu viên chính của Trung 
tâm Nghiên cứu Khoa học Quốc gia Pháp (CNRS), sau đó làm việc tại Trung tâm 
Nghiên cứu Hạt nhân Châu Âu từ năm 1963 đến 1989. Năm 1984, ông làm việc tại 
phòng thí nghiệm Chaire Joliot - Curie của Trường cấp cao Vật lý và Hóa học công 
nghiệp Paris (ESPCI).
 Từ năm 1941, G. Charpak tham gia quân đội. Năm 1943 ông bị bắt và giam tại 
nhà tù Centrale d'Eysses, sau đó chuyển đến tại trại giam tập trung Dachau.
 Các công trình của Georges Charpak tập trung chủ yếu về Vật lý hạt nhân, Vật 
lý hạt năng lượng cao.
 5 Soyez savants, devenez prophètes
Ed. Odile Jacob (2004)
8) G. CHARPAK, P.LENA, Y.QUERE
L'enfant et la science
Ed. Odile Jacob (2005)
9) G. CHARPAK, R.L.GARWIN,V.JOURNE
De Tchernobyl en tchernobyis
Ed. Odile Jacob(2005)
10)G. CHARPAK
Mémoires dun déraciné, physicien, citoyen du monde
Ed. Odile Jacob (2008, 2010)
1.4. Phương pháp BTNB trên thế giới
 Ngay từ khi mới ra đời, phương pháp BTNB đã được tiếp nhận và truyền bá 
rộng rãi. Nhiều quốc gia trên thế giới đã hợp tác với Viện Hàn lâm Khoa học Pháp 
trong việc phát triển phương pháp này như Brazil, Bỉ, Afghanistan, Campuchia, 
Chilê, Trung Quốc, Thái Lan, Colombia, Hy lạp, Malaysia, Marốc, Serbi, Thụy Sĩ, 
Đức, trong đó có Việt Nam thông qua Hội Gặp gỡ Việt Nam. Tính đến năm 2009, 
có khoảng hơn 30 nước tham gia trực tiếp vào chương trình BTNB.
 Nhờ sự bảo trợ của Vụ Công nghệ - Bộ Giáo dục Quốc gia Pháp, trang web 
quốc tế dành cho 9 quốc gia được thành lập năm 2003 nhằm đăng tải tài liệu cung cấp 
bởi các giáo viên, giảng viên theo ngôn ngữ của mỗi nước thành viên tham gia.
 Hệ thống các trang web tương đồng (site miroir) với trang web BTNB của 
Pháp được nhiều nước thực hiện, biên dịch theo ngôn ngữ bản địa của các quốc gia 
như Trung Quốc, Hy lạp, Đức, Serbi, Colombia
 Tháng 7 năm 2004, trường hè Quốc tế về BTNB với chủ đề "Bàn tay nặn bột 
trên thế giới: trao đổi, chia sẻ, đào tạo" đã được tổ chức ở Erice – Ý dành cho các 
chuyên gia Pháp và các nước.
 Hội đồng Khoa học Quốc tế (International Council for Science - ICS) và Hội 
các Viện Hàn lâm Quốc tế (International Academy Panel - IPA) phối hợp tài trợ để 
thành lập cổng thông tin điện tử về giáo dục khoa học, trong đó nội dung phương 
pháp BTNB được đưa vào. Cổng thông tin đa ngôn ngữ này được thành lập vào tháng 
4/2004.
 Nhiều dự án theo vùng lãnh thổ, châu lục được hình thành để giúp đỡ, hỗ trợ 
cho việc phát triển phương pháp BTNB tại các quốc gia. Có thể kể đến dự án Pollen 
(Hạt phấn) của Châu Âu, dự án phát triển phương pháp BTNB trong hệ thống các lớp 
song ngữ tại Đông Nam Á của VALOFRASE (Valofrase du Francais en Asie du Sud-
Est - Chương trình phát triển tiếng Pháp ở Đông Nam Á), dự án giảng dạy khoa học 
cho các nước nói tiếng Ả-rập
1.5. Phương pháp BTNB tại Việt Nam
1.5.1. Hội gặp gỡ Việt Nam (Rencontres du Vietnam) và những đóng góp cho sự du 
nhập và phát triển của BTNB tại Việt Nam
 Hội Gặp gỡ Việt Nam (tên tiếng Pháp là "Recontres du Vietnam") được thành 
 7 Năm 2002, nhóm nghiên cứu tăng thêm các lớp tiểu học áp dụng phương pháp BTNB 
tại Hà Nội và mở thêm các lớp tại Huế và tại Thành phố Hồ Chí Minh. Lớp tập huấn 
về phương pháp BTNB cho giáo viên được tổ chức vào tháng 9/2002 tại Hà Nội.
Từ 2002 đến nay, dưới sự giúp đỡ của Hội Gặp gỡ Việt Nam các lớp tập huấn về 
phương pháp BTNB đã được triển khai cho các giáo viên cốt cán và các cán bộ quản 
lý tại nhiều địa phương trong toàn quốc. Các giảng viên tập huấn là các giáo sư tình 
nguyện người Pháp đến từ Viện Đào tạo Giáo viên (IUFM), Đại học Tây Bretagne.
Tháng 12/2009, trong chuyến công tác về Việt Nam để tham gia dự Hội nghị người 
Việt Nam ở nước ngoài theo lời mời của Chính phủ Việt Nam, Giáo sư Trần Thanh 
Vân đã gặp gỡ và trao đổi về chương trình BTNB tại Việt Nam với Thứ trưởng 
Nguyễn Vinh Hiển và Vụ trưởng Vụ Tiểu học Lê Tiến Thành.
Tháng 8/2010, GS. Trần Thanh Vân có cuộc gặp gỡ, trao đổi với Bộ trưởng Bộ Giáo 
dục và Đào tạo Phạm Vũ Luận và thứ trưởng Nguyễn Vinh Hiển, trong đó có nội 
dung về định hướng phát triển phương pháp BTNB tại Việt Nam.
1.5.2. Tình hình áp dụng phương pháp BTNB trong các trường tiểu học tại Việt Nam.
 Với sự cố gắng đem lại cho giáo viên tiểu học tại Việt Nam một phương pháp 
dạy học mới, tích cực nhằm thực hiện đổi mới phương pháp dạy học trên tinh thần 
của Bộ Giáo dục và Đào tạo, Hội Gặp gỡ Việt Nam đã trực tiếp làm việc với các 
trường đại học, các Sở Giáo dục và Đào tạo tại các địa phương để tổ chức các lớp tập 
huấn về phương pháp BTNB cho giáo viên cốt cán, giảng viên, cán bộ quản lý (Hiệu 
trưởng, hiệu phó, chuyên viên phụ trách Tiểu học các phòng Giáo dục và Đào tạo).
 Ý thức được vấn đề đổi mới phương pháp dạy học trong trường tiểu học và tầm 
quan trọng của phương pháp BTNB trong việc hình thành ý thức khoa học, niềm say 
mê khoa học cho học sinh ngay từ lứa tuổi tiểu học, các giáo viên, cán bộ quản lý sau 
khi tham dự các lớp tập huấn đã triển khai tập huấn lại cho đồng nghiệp tại đơn vị. 
Nhờ đó phương pháp BTNB đã được nhân rộng hơn, triển khai được nhiều hơn cho 
các giáo viên tại các trường tiểu học.
 Tại một số địa phương, chương trình triển khai áp dụng phương pháp BTNB 
được triển khai mạnh mẽ từ cấp Phòng Giáo dục và Đào tạo đến cấp trường, nổi bật 
như Thành phố Hồ Chí Minh, thành phố Đà Nẵng. Tại Đà Nẵng sau đợt tập huấn 
dành cho giáo viên và chuyên viên các Phòng Giáo dục và Đào tạo năm 2009, Sở 
Giáo dục và Đào tạo Đà Nẵng đã làm việc với Hội Gặp gỡ Việt Nam để "đặt hàng" 
thiết kế một chương trình tập huấn ngắn cho cán bộ quản lý bậc tiểu học toàn thành 
phố (hiệu trưởng, hiệu phó, chuyên viên phụ trách tiểu học các Phòng GD&ĐT trực 
thuộc) nhằm giúp các cán bộ quản lý hiểu rõ về phương pháp BTNB, tầm quan trọng 
của nó và tạo điều kiện cho các giáo viên thí điểm áp dụng trong các tiết dạy khoa 
học ở trường.
 Thời gian qua phương pháp BTNB được áp dụng và đạt được những kết quả 
nhất định tại một số trường tiểu học Việt Nam. Trên cơ sở kết quả ấy, Bộ Giáo dục và 
Đào tạo đang chỉ đạo nghiên cứu phương pháp BTNB để áp dụng và mở rộng từng 
bước ở tiểu học và trung học cơ sở, tiến tới triển khai mở rộng rãi trên cả nước.
 Cùng với các lớp tiểu học thực hiện theo chương trình tiểu học của Việt Nam, 
các lớp tiểu học song ngữ tiếng Pháp được áp dụng mạnh mẽ và có hiệu quả cao 
 9

File đính kèm:

  • docde_tai_phuong_phap_ban_tay_nan_bot_trong_day_hoc_cac_mon_kho.doc